Tuhoc.com.vn - Kiến thức HƯỚNG NGHIỆP, TỰ HỌC và GIÁO DỤC
  • Định vị
    • Bạn là ai?
    • Hướng đi phù hợp cho bạn?
  • Định hướng
    • Thế giới nghề nghiệp
    • Ngành học
    • Tư vấn du học
  • Tự học
    • Chủ đề Tự học
    • Làm tốt Học hay
    • Sống chất lượng
  • Kho tri thức
    • Tủ sách chọn lọc
    • Giáo dục
    • Tâm lý học
    • Lịch sử
    • Triết học
    • Tôn giáo
    • Khoa học và Công nghệ
    • Kinh tế
    • Tài chính
    • Pháp luật
    • Nghệ thuật
  • Chia sẻ
    • Góc nhìn
    • Hỏi – Đáp
  • Về chúng tôi
    • Liên hệ
No Result
View All Result
  • Định vị
    • Bạn là ai?
    • Hướng đi phù hợp cho bạn?
  • Định hướng
    • Thế giới nghề nghiệp
    • Ngành học
    • Tư vấn du học
  • Tự học
    • Chủ đề Tự học
    • Làm tốt Học hay
    • Sống chất lượng
  • Kho tri thức
    • Tủ sách chọn lọc
    • Giáo dục
    • Tâm lý học
    • Lịch sử
    • Triết học
    • Tôn giáo
    • Khoa học và Công nghệ
    • Kinh tế
    • Tài chính
    • Pháp luật
    • Nghệ thuật
  • Chia sẻ
    • Góc nhìn
    • Hỏi – Đáp
  • Về chúng tôi
    • Liên hệ
No Result
View All Result
Tuhoc.com.vn - Chia sẻ kiến thức HƯỚNG NGHIỆP, TỰ HỌC và GIÁO DỤC
No Result
View All Result
Home Kho tri thức Lịch sử

Trịnh Hoài Đức – Một đời liêm khiết, thanh cao, rạng danh đất Biên Hoà | #2 Idol Việt xưa

by Nguyễn Tiến Dũng
4 tháng ago
in Lịch sử
A A
0
Trịnh Hoài Đức

Trịnh Hoài Đức

0
SHARES
34
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Nội dung chính

  1. Thân thế và sự nghiệp
    1. Sự nghiệp chốn quan trường
  2. Tác phẩm
5/5 - (1 bình chọn)

Trịnh Hoài Đức, một vị quan tài năng, thanh liêm được cả hai đời vua Gia Long, MInh Mạng trọng dụng, tin tưởng.

Một học trò xuất sắc của cụ Võ Trường Toản – Idol trong làng sư phạm đất Nam kỳ xưa.

Gần 40 năm làm quan cống hiến cho triều đình, thăng tới hàm Nhất phẩm nhưng Trịnh Hoài Đức nhà riêng còn không có. Về già, được đích thân Vua Minh Mạng tặng đất, cho tiền dựng nhà.

ÔNG XỨNG DANH IDOL “LIÊM”, RẠNG DANH ĐẤT BIÊN HOÀ XƯA.

Nhìn người xưa mà ngẫm chuyện nay
Thanh thiên bạch nhật ai cũng hay
Xưa làm quan vì dân vì nước
Nay ráng làm quan cầm nặng tay
– The D Journeys – 
Xin mời các bạn cùng tìm hiểu rõ hơn về Trịnh Hoài Đức ở phần tiếp theo nhé.

Thân thế và sự nghiệp

Trịnh Hoài Đức ( 1765 – 1825), còn có tên là An (安), tự Chỉ Sơn , hiệu Cấn Trai; là một công thần của triều Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 18-19. Sinh thời, ông từng được vua nhà Nguyễn ban tước An Toàn hầu.

Tổ tiên ông vốn là người Phúc Kiến (Trung Quốc), có truyền thống khoa bảng, nho học. Nhưng tới thời ông nội của ông là Trịnh Hội gặp biến cố nhà Thanh, không chịu để tóc đuôi sam nên đã di cư sang Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Tần, trước ngụ ở Phú Xuân (Huế), sau vào ở Trấn Biên (vùng Biên Hòa ngày nay).

Tôi, nguyên gốc ở làng Phúc Hồ, huyện Trường Lạc, phủ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến; cụ tổ xa đời là Hoàn Phổ công, làm đến chức Thượng thư bộ Binh, đến cuối triều Minh thì hưu trí; gia thế vốn nối đời đèn sách nghiệp Nho. Đến đời ông tôi gặp lúc nhà Thanh vào lấy Trung Quốc; không cam chịu đổi cách ăn mặc, cắt tóc, bèn sang nước Nam làm khách, trú ngụ tại xã Thanh Hà, thuộc huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hoà, chịu sống cuộc đời dân mất gốc, phiêu bạt. Lúc đầu thử làm nghề gốm da chu, sau nổi tiếng khắp nơi; được coi là tay cự phách ở Lộc Động (tục gọi là Đồng Nai).

– Trích “Lời đề tựa Cấn Trai thi tập”, Trịnh Hoài Đức –

Cha ông tên là Khánh, vốn dòng dõi khoa bảng, được chúa Nguyễn Phúc Khoát thu dụng, cho làm An Dương Cai thủ, rồi làm Chấp canh tam trường Cai đội.

Năm lên 10, cha mất, Trịnh Hoài Đức theo mẹ vào sống ở Gia Định, theo học với thầy Võ Trường Toản tại Hòa Hưng (nơi cụ Võ Trường Toản dạy học khi xưa nay là Đình Chí Hoá, thuộc Phường Hoà Hưng, Tp HCM). Trong số bạn học của ông lúc bấy giờ, có Ngô Tùng Châu và Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh, về sau cũng đều là công thần của nhà Nguyễn.

Đến đời cha tôi, lúc nhỏ thì theo học Thi thư; lớn lên thông cả lục nghệ; tài viết đại tự (chữ lớn) và đánh cờ cũng được người đời xưng tụng. Xấu hổ thấy đám trẻ tuổi thả sức tán dương, bèn bỏ tiền của mua được chức quan nhỏ trông coi việc thu thóc. Vì để thóc bị chìm, Lê quận công chuyển xuống cho làm lại tốt ở đội Tả phùng dực, ông bèn đến kinh Phú Xuân nộp tiền để nhận áo mũ hàng lục phẩm và nhận chức ở kho phủ Tân Bình, đồng thời mang gia quyến đi theo.

Đến năm Quí Tị, không may qua đời, lúc ấy tôi vừa 10 tuổi. Tôi theo mẹ và anh chị về chỗ ở cũ tại xã Thanh Hà để phụng dưỡng bà nội. Về sau Tây Sơn vào cướp bóc, bốn bể nổi sóng, nhà cửa trở thành đất hoang, tiền như giếng, vàng như nước, đều vào túi bọn giặc cướp.

– Trích “Lời đề tựa Cấn Trai thi tập”, Trịnh Hoài Đức –

Sự nghiệp chốn quan trường

37 năm cống hiến cho triều đình, từ khi đất nước còn binh biến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn, tới khi thống nhất, dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng, ông đảm nhiệm nhiều trọng trách quan trọng.

Ngay khi Vua Gia Long lên ngôi (1802), ông được thăng làm Thượng thư bộ Lễ, nhận nhiệm vụ quan trọng làm Chính sứ để bang giao với nhà Thanh, Trung Quốc.

Ông trải qua 4 lần làm Thượng thư:

  • Bộ Lễ (văn hoá, giáo dục, ngoại giao)
  • Bộ Lại (Bộ Nội vụ, tổ chức  quan lại triều đình)
  • Bộ Hộ (phụ trách quản lý tài sản quốc gia trong dân chúng chư đất đai, hộ khẩu, thóc lúa,.. tương đương Bộ Tài chính, bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp bây giờ))
  • Bộ Binh (quân đội bộ Quốc phòng hiện nay)

Kiêm nhiệm Phó Tổng tài Quốc sử quán, phụ trách việc biên soạn về Địa lý, Lịch sử đất nước.

Ông cũng là Quan Chủ khảo kỳ thi đầu tiên của triều Nguyễn (1822).

Tất cả cho thấy sự đa tài của ông, và sự tin tưởng hết mức của triều đình dành cho ông.

Gia Định tam gia: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Lê Quang Định
Gia Định tam gia: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Lê Quang Định

Tóm tắt cuộc đời làm quan (theo Wiki):

  • Năm Mậu Thân (1788), sau khi đánh lấy được Gia Định, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho mở khoa thi để chọn người giúp việc. Trịnh Hoài Đức đỗ khoa ấy, được bổ làm Hàn lâm chế cáo.
  • Đến năm sau (1789), ông được bổ làm Tri huyện ở Tân Bình, rồi được kiêm làm Điền Tuấn trông coi việc khai khẩn đất đai ở Gia Định. Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
  • Tháng 3 năm Quý Sửu (1793), ông lãnh chức Đông Cung Thị Giảng. Tháng 11 năm đó, ông được cử theo Đông Cung Cảnh (Nguyễn Phúc Cảnh) ra giữ thành Diên Khánh (Khánh Hoà ngày nay).
  • Năm sau (Giáp Dần, 1794), ông được thăng làm ký lục Trấn Định Tường, rồi được bổ làm Hộ bộ Hữu Tham tri.
  • Năm Tân Dậu (1801), khi chúa Nguyễn mang quân ra đánh lấy Phú Xuân, Trịnh Hoài Đức lo việc gặt hái ở Quảng Nam và Quảng Ngãi để tiếp vận quân lương.
  • Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) chúa Nguyễn lên ngôi ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long. Sau đó, ông được phong làm Thượng thư bộ Hộ, đồng thời sung làm Chánh sứ sang Thanh (Trung Quốc). Cùng đi với ông hai Phó sứ là Hữu Tham tri bộ Binh Ngô Nhân Tịnh (hay Tĩnh) và Hữu Tham tri bộ Hình Hoàng Ngọc Uẩn.
  • Năm 1808, ông được bổ làm Hiệp trấn Gia Định Thành, phụ tá cho Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn (hay Nhân). Năm 1812, ông được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thượng thư, kiêm quản Khâm thiên giám. Năm 1813 lại đổi làm Lại bộ Thượng thư. Năm 1816 ông lại được bổ nhiệm làm Hiệp Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai. Sau khi, Tổng trấn Nhơn về kinh, ông tạm giữ quyền Tổng trấn (1820).
  • Đầu năm Canh Thìn (1820), vua Minh Mạng lên nối ngôi. Sau đó, nhà vua cho triệu ông về kinh làm Lại bộ Thượng thư như trước, lại kiêm cả Binh bộ Thượng thư, đồng thời sung chức Phó Tổng tài Quốc sử giám, thăng Hiệp biện Học sĩ. Kiêm lĩnh nhiều việc quan trọng, sợ mình không làm tròn, ông đã từ chối đôi ba lượt; nhưng vì vua Minh Mạng tỏ lòng ưu ái nên ông đành phải vâng mạng. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua xuống chiếu cầu sách cũ. Trịnh Hoài Đức dâng lên quyển Gia Định thành thông chí (do ông biên soạn) và quyển Bột di ngư văn thảo (của Mạc Thiên Tứ).
  • Tháng 9 năm Tân Tỵ (1821), nhà vua ngự giá ra Bắc, ông được đi theo. Khi về, ông dâng lên vua hai quyển là Lịch đại kỷ nguyên và Khang tế lục.
  • Năm 1822, ông được cử làm Giám khảo kỳ thi ân khoa.
  • Năm 1823, thấy mình già yếu, ông dâng sớ xin từ quan. Vua Minh Mạng sai đại thần Phạm Đăng Hưng đến thăm và lưu ở lại, ông đành phải xin về nghỉ dưỡng 3 tháng. Mãn hạn nghỉ phép, ông trở ra Huế, nhà vua ban cho ông 2.000 quan tiền và vật liệu để ông làm nhà ở phía cửa Đông ngoài thành.

Tháng 2 năm Tân Tỵ (1825), Trịnh Hoài Đức mất vì bệnh tại Huế, thọ 61 tuổi. Vua Minh Mang thương tiếc một trụ cột triều đìnhm cho bãi triều 3 ngày, truy tặng ông là Thiếu bảo Cần chánh điện Đại học sĩ, ban tên thụy là Văn Khắc.

Đặc biệt, nhà vua còn cử Hoảng tử đưa linh cữu ông từ Phú Xuân về quê, khi linh cữu ông về tới đất Gia Định, đích thân Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt ra đưa tiễn về tận huyệt tại làng Bình Trúc (nay là tại khu phố III, thuộc phường Trung Dũng, TP. Biên Hòa). Mộ ông vẫn còn nằm ở đó cho tới tận bây giờ, năm 2025 này là Tròn 200 năm, trải qua bao binh biến và biến động thời cuộc.

Cuộc đời Trịnh Hoài Đức dẫu làm quan đạt đến đỉnh cao của danh vọng, thăng đến Hiệp biện Đại học sĩ, hàm Nhất phẩm, nhưng ông sống cuộc sống thanh liêm, giản dị. Những năm về già, khi cáo quan về quê dưỡng bệnh, nhà vua thương mến, cho  về nghỉ ngơi 3 tháng, rồi khi quan lại kinh đô Phú Xuân được vua cấp thêm 3000 quan tiền để làm nhà riêng ở phía Đông thành.

Đúng slogan của ông: Đã đem thân mình đi đền ơn nước, thì nơi đâu cũng có thể xem là nhà.(2 câu đối này hiện nay vẫn còn lưu trên bia trước mộ ông và vợ).

Khu mộ Trịnh Hoài Đức tại Biên Hoà, Đồng Nai
Khu mộ Trịnh Hoài Đức tại Biên Hoà, Đồng Nai

Ngoài khu mộ, ông còn được dựng tượng và đặt bài vị tại Văn miếu Trấn Biên (thuộc BIên Hoà, Đồng Nai ngày nay,là Văn miếu đầu tiên của vùng đất Nam kỳ, nới mà học sinh sinh viên Biên Hoà chắc ai cũng đều có 1 lần tới thăm).

Tượng Trịnh Hoài Đức đặt tại Văn Miếu Trấn Biên, Biên Hoà, Đồng Nai
Tượng Trịnh Hoài Đức đặt tại Văn Miếu Trấn Biên, Biên Hoà, Đồng Nai

Năm Tự Đức thứ 5 (1852), bài vị của ông đưa đưa vào trong miếu Trung Hưng Công Thần; và đến năm 1858, lại được đưa vào thờ trong đền Hiền Lương.

Ngày 27 tháng 12 năm 1990, khu lăng mộ của Trịnh Hoài Đức và người vợ chính (họ Lê) được xếp vào di tích di tích Văn hóa – lịch sử quốc gia.

Tác phẩm

Cuộc đời Trịnh Hoài Đức để lại rất nhiều tác phẩm văn chương, thi ca, dư địa chí.

  • Cấn Trai thi tập: gồm 3 tập: Thối thực truy biên tập, Quan quang tập, Khả dĩ tập. Là những bài thơ làm từ năm 1783 đến năm 1819, được khắc in năm 1819.
  • Bắc sứ thi tập: gồm những bài thơ làm khi đi sứ sang nhà Thanh.
  • Gia Định tam gia thi tập: tức tập thơ của tam gia Gia Định, là: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định.
  • Đi sứ cảm tác: là tập gồm 18 bài viết theo kiểu liên hoàn chữ Nôm.
Nhìn chung, thơ Trịnh Hoài Đức thường là thơ thất ngôn bát cú; và đề tài thường là “trữ tình”, hay miêu tả “cảnh vật, sinh hoạt” của nhân dân ở những nơi ông ở hoặc đi qua.
  • Lịch đại kỷ nguyên
  • Khang tế lục
  • Gia Định thành thông chí: gồm 6 quyển, viết bằng chữ Hán, không có lời tựa, nên không biết tác giả biên soạn vào năm nào và trong hoàn cảnh nào. Chỉ biết là sách hoàn thành trong đời Gia Long, cho nên ngay khi vua Minh Mạng xuống chiếu cầu sách cũ (1820), ông đã đem dâng lên. Nội dung bộ sách ghi chép khá đầy đủ về núi sông, cửa biển, phong tục, sản vật, con người ở Gia Định (Nam Bộ ngày nay),… Đây là một công trình được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao, và đã được dịch ra tiếng Pháp từ cuối thế kỷ 19.
Gia Định Thành thông chí
Gia Định Thành thông chí

Có thể nói “Gia Định thành thông chí” là cống hiến xuất sắc của Trịnh Hoài Đức đối với lịch sử và văn hóa dân tộc. Bộ sách không chỉ có giá trị lớn về mặt lịch sử, văn hóa và địa lý, sách còn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ.

Cuối cùng, xin trích lại một cặp câu đối hiện nay còn lưu giữ nơi Lăng mộ ông:

Tâm như bình nguyên mục mã, dị phóng nan thu
Học như nghịch thủy hành chu, bất tiến tất thoái.

Dịch nghĩa:

Lòng người như cưỡi ngựa trên bình nguyên, phóng đi thì dễ, ghìm giữ mới khó.
Việc học như chèo thuyền ngược nước, không tiến tới được, ắt sẽ tụt lùi.

Cặp câu đối như khái quát cuộc đời ông, suốt đời dù ở bất kỳ cương vị nào, Trịnh Hoài Đức cũng không ngừng trau dồi bản thân, không ngừng cống hiến cho triều đình, cho đất nước. Sống một cuộc đời thanh cao, không màng danh lợi. 

Xứng danh idol Viêt xưa.


Bài viết nằm trong danh mục Idol Việt xưa – Nơi vinh danh những Idol đất Việt đã làm rạng danh và kiến tạo nên một dải đất hình chữ S tươi đẹp ngày nay

Tags: Idol Việt xưa
Previous Post

Tìm hiểu Ngành Biểu diễn nhạc cụ truyền thống (Mã ngành: 7210210)

Next Post

Tìm hiểu Ngành Lý luận, Lịch sử và Phê bình Sân khấu (Mã ngành: 7210221)

Next Post
Tìm hiểu Ngành Lý luận, Lịch sử và Phê bình Sân khấu (Mã ngành: 7210221)

Tìm hiểu Ngành Lý luận, Lịch sử và Phê bình Sân khấu (Mã ngành: 7210221)

5 1 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Đăng nhập
Thông báo của
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Bài viết đọc nhiều

Mật mã Holland - Trắc nghiệm sở thích nghề nghiệp

Bài trắc nghiệm Sở thích nghề nghiệp theo Mật mã Holland và kết nối nghề nghiệp phù hợp

09/07/2025
1.4k
Lý thuyết mật mã Holland

Lý thuyết mật mã Holland – Trắc nghiệm sở thích nghề nghiệp dành cho hướng nghiệp

05/07/2025
10.5k
Mô hình Tháp nhu cầu Maslow

Tháp nhu cầu Maslow là gì? Con người khao khát điều gì?

05/06/2025
205
Ngành Giáo dục Quốc phòng – An ninh

Ngành Giáo dục Quốc phòng – An ninh (Mã ngành: 7140208)

10/07/2025
14.9k

Bình luận gần đây

  • Nguyễn Tiến Dũng trong Bộ từ điển năng lực nhân sự theo mô hình ASK (Attitude, Skill, Knowledge)
  • Thanh Tuyết trong Ngành Giáo dục Quốc phòng – An ninh (Mã ngành: 7140208)
  • Thien lam trong Tìm hiểu ngành Sư phạm Lịch sử (Mã ngành: 7140218)
  • kiểm tra tính cách màu sắc miễn phí trong Bạn là ai? Hiểu mình để tự tin hơn khi lựa chọn
  • Abigayle Wolfe trong Data Engineer: Học gì, học ở đâu và cơ hội nghề nghiệp

Bài viết mới nhất

Tìm hiểu Ngành Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam (Mã ngành: 7220101)

Tìm hiểu Ngành Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam (Mã ngành: 7220101)

20/07/2025
14
Ngành Đạo diễn Sân khấu (Mã ngành - 7210227)

Tìm hiểu Ngành Đạo diễn Sân khấu (Mã ngành: 7210227)

19/07/2025
7
Võ Trường Toản - Bậc Lương Sư Hưng Quốc - Sư Tổ ngành giáo dục Nam Kỳ | #2 Idol Việt xưa

Võ Trường Toản – Bậc Lương Sư Hưng Quốc – Sư Tổ ngành giáo dục Nam Kỳ | #2 Idol Việt xưa

19/11/2025
58
Tìm hiểu Ngành Diễn viên Sân khấu Kịch hát (Mã ngành: 7210226)

Tìm hiểu Ngành Diễn viên Sân khấu Kịch hát (Mã ngành: 7210226)

16/07/2025
6

Danh mục

  • Bạn là ai?
  • Chia sẻ
  • Chủ đề Tự học
  • Định hướng
  • Định vị
  • Giáo dục
  • Góc nhìn
  • Hỏi – Đáp
  • Hướng đi phù hợp cho bạn?
  • Kho tri thức
  • Khoa học và Công nghệ
  • Kinh tế
  • Làm tốt Học hay
  • Lịch sử
  • Ngành Dịch vụ xã hội
  • Ngành học
  • Ngành Khoa học và Công nghệ
  • Ngành Kỹ thuật
  • Ngành Nghệ thuật
  • Ngành Quản trị và bán hàng
  • Ngành Vận hành
  • Người thật – Việc thật
  • Sống chất lượng
  • Tài chính
  • Tâm lý học
  • Thế giới nghề nghiệp
  • Tôn giáo
  • Triết học
  • Tự học
  • Tủ sách chọn lọc
  • Tư vấn du học
Chào bạn "tự học-er", cảm ơn bạn đã tới đây!
Nếu bạn đang có băn khoăn, vấn đề gì cần hỗ trợ, giải đáp thì đừng ngại chia sẻ với chúng tôi nhé, chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe các bạn.

TUHOC.COM.VN

Là nơi chia sẻ thông tin về HƯỚNG NGHIỆP, đồng thời là không gian TỰ HỌC, dành cho tất cả mọi người có mong muốn tự rèn luyện, nâng cao kiến thức, kỹ năng để hoàn thiện bản thân TỐT HƠN MỖI NGÀY.

DANH MỤC

  • Định vị
  • Định hướng
  • Tự học
  • Kho tri thức
  • Chia sẻ

Thông tin

  • Về chúng tôi
  • Liên hệ
  • 0876 555 234
  • 0876 555 234 (Zalo)
  • info@tuhoc.com.vn
© 2022 Tuhoc.com.vn

Hỗ trợ
tư vấn

  • Định vị
    • Bạn là ai?
  • Định hướng
    • Thế giới nghề nghiệp
      • Người thật – Việc thật
    • Ngành học
  • Tự học
    • Làm tốt Học hay
    • Sống chất lượng
  • Kho tri thức
    • Giáo dục
    • Khoa học và Công nghệ
    • Kinh tế
    • Lịch sử
    • Nghệ thuật
    • Pháp luật
    • Tài chính
    • Tôn giáo
    • Triết học
    • Tủ sách chọn lọc
  • Chia sẻ
    • Góc nhìn
    • Hỏi – Đáp
  • Giới thiệu
    • Liên hệ
wpDiscuz
0
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
| Trả lời