Có một người thầy mà ngày nay mọi người tôn vinh ông là bậc Lương sư hưng quốc, “Sư tổ ngành giáo dục Nam Kỳ”.
Võ Trường Toản sống trầm lặng, ẩn mình với thế sự, để chuyên tâm dạy học. Mà danh tiếng của ông vang xa đến cả Nguyễn Ánh. Vị chúa Nguyễn, đang trong giai đoạn khó khăn nhất của cuộc phục nghiệp, nhận thấy tầm quan trọng của việc chiêu mộ hiền tài để dựng xây đất nước sau này.
Nguyễn Ánh đã đích thân viết thư, mời Võ Trường Toản ra làm quan, phò giúp triều đình.
Thì liệu rằng trong bối cảnh binh đao loạn lạc, khói lửa triền miên đó, ông có từ bỏ cuộc sống ẩn dật để dấn thân vào chốn quan trường, cống hiến sức mình cho triều đình?
Khái quát về cuộc đời Võ Trường Toản
Vùng đất Gia Định vào những năm đầu Thế kỷ XVIII là một giai đoạn đầy biến động của lịch sử Việt Nam. Đất nước chìm trong loạn lạc, chiến tranh liên miên giữa chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn.
Giữa tiếng gươm đao khua động và khói lửa chiến tranh, khi bao người mải mê tranh đoạt quyền lực, có một người đã chọn con đường khác. Đó là Võ Trường Toản.

Võ Trường Toản là một nhà nho uyên thâm, có học vấn quảng bác. Ông mở lớp dạy học tại một vùng ven đô thành phố thị. Lớp học của ông, dù đơn sơ, lại trở thành nơi tụ hội của những tài năng trẻ khao khát con chữ, khao khát cống hiến cho đất nước.
Lớp học của ông thời đó như ốc đảo của tri thức. Trong một ngôi nhà tranh giữa vườn cau, hàng trăm học trò tìm đến vì sự ngưỡng vọng trí tuệ và đức độ của ông.
Khi nhận lá thư mời ra làm quan của Nguyễn Ánh, Võ Trường Toản đã đưa ra một quyết định làm sử sách phải ghi danh. Ông từ chối.
Theo các bạn thì vì sao ông từ chối lời mời này?
Không phải vì chối bỏ trách nhiệm. Không phải vì ông thiếu lòng yêu nước, mà vì ông hiểu rõ sứ mệnh đích thực của mình: không phải là người cầm kiếm, mà là người cầm bút; không phải là người cai trị, mà là người soi đường. Đó mới là việc ông có thể làm tốt nhất.
Võ Trường Toản khẳng định rằng sứ mệnh của mình nằm ở việc giáo dục, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Ông tin rằng, việc đào tạo ra những con người có trí tuệ và đạo đức còn quan trọng hơn việc trực tiếp tham gia vào chốn quan trường lúc này.
Và quả thật, dưới sự dạy dỗ của Võ Trường Toản, rất nhiều học trò đã thành danh, trở thành những trụ cột của triều Nguyễn sau này.
Võ Trường Toản mất vào mùng 9/5 năm Nhâm Tý (nhằm 27/7/1792) tại làng Hòa Hưng, và được an táng tại đây.
Hay tin này, chúa Nguyễn Ánh cảm mến, tiếc thương, ban từ hiệu là “Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh“, nghĩa là “Võ tiên sinh người Gia Định, là bậc trí sĩ ở ẩn, đề cao đạo đức” cùng đôi liễn truy điệu:
Tạm hiểu là:

Ngày 28/3/1867, năm Tự Đức thứ 18, để bảo toàn hài cốt của cụ Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản cùng nhiều trí sĩ đã tập hợp và đưa về cải táng tại làng Bảo Thạnh, thuộc tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Di hài vợ cùng ấu nữ cũng được cải táng cạnh mộ của cụ.
Phan Thanh Giản đã kể chi tiết việc dời mộ Võ Trường Toản từ Bình Dương (Gia Định) về Ba Tri (Vĩnh Long) để thấy được thái độ của người sau với Võ Trường Toản: “Cùng với người đồng quận tiên sinh là Nguyễn Thông, Đốc học tỉnh Vĩnh Long, chúng tôi hội các thân sĩ mưu toan việc dời mộ (…) Nhờ quan học sứ Nguyễn Thông đứng làm chủ tang; đồ tang phục thì chiếu theo lễ tế thầy xưa mà sắp đặt (…) Tại tỉnh, các bạn đồng liêu, dưới phủ huyện, huấn giao, sĩ tử, có các thân sĩ hai tỉnh An Giang, Hà Tiên cùng với các sĩ phu ba tỉnh vùng Gia Định lưu ngụ trong ba tỉnh này đều tham dự vào lễ kiết táng.”

Hiện nay, có tới 20 trường học ở khắp Nam Bộ vinh dự mang tên Võ Trường Toản.

Riêng ở TP HCM, Võ Trường Toản là giải thưởng thường niên vinh danh những nhà giáo tiêu biểu của thành phố hơn 20 năm qua.
Trong Văn Thánh Miếu Vĩnh Long và Văn Miếu Trấn Biên (TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) (là 2 Văn Thánh miếu còn tồn tại ở vùng đất Nam kỳ) đều có đặt bài vị thờ ông.
Như vậy, chúng ta hiểu hơn về khát khao, và những đóng góp lớn của ông với cuộc đời. Nhưng, nhờ đâu mà ông có thể đào tạo ra những học trò kiệt xuất như vậy? Và điều gì khiến ông vẫn còn để lại ảnh hưởng lớn lao tới ngành Giáo dục Nam bộ cho tới tận ngày nay?
Xin mời các bạn cùng chúng tôi tìm hiểu ngay sau đây nhé.
Tư tưởng và triết lý dạy học của Võ Trường Toản
Theo như nghiên cứu về ông qua các tài liệu nói về ông và tác phẩm duy nhất còn lại của ông, bài “Hoài cổ phú”. Thì có thể khái quát tư tưởng và triết lý dạy học trò của ông qua 2 câu:
“Nghĩa lý để giáo hoá”
và
“Tri ngôn dưỡng khí”
Trước hết, nguồn gốc của thuyết “Tri ngôn dưỡng khí” là từ Mạnh Tử. Mạnh Tử có nói:
Ngã tri ngôn, ngã thiện dưỡng ngô hạo nhiên chi khí (Biết xét lời nói của thiên hạ, khéo nuôi cái khí hạo nhiên của bản thân)
Theo Mạnh tử:
Tôi xin diễn giải lại:
Nhờ những triết lý tư tưởng đó, mà ông đã đào tạo ra một thế hệ danh nhân kiệt xuất.
“Bậc đại hiền sinh ra không chỉ để làm quan mà còn có thể dạy dỗ cả một thế hệ học trò làm quan”

Phân tích tác phẩm “Hoài cổ phú”
Di sản duy nhất còn lại của Võ Trường Toản là bài phú “Hoài cổ phú” hay gọi đầy đủ hơn là “Hiếu trung hoài cổ phú”.
Thường một bài phú, bố cục có các phần:
- Lung: nêu chủ đề;
- Biện nguyên: giải thích ý nghĩa của chủ đề;
- Thích thực: phân tích ý nghĩa toàn bài;
- Phu diễn: dẫn chứng minh họa;
- Nghị luận: bàn bạc ý của toàn bài;
- Kết: tóm tắt.
Tuy nhiên, xét tính chất của các phần trong một bài phú, ta có thể căn cứ cách bố cục chung ba phần:
để tìm hiểu nội dung và phong cách nghệ thuật bài “Hoài cổ phú” của thầy Võ Trường Toản.
Phần một gồm có: lung, biện nguyên, thích thực, với 6 câu tính từ câu 1 đến hết câu 6
Lung của bài phú này có 2 vế đối:
Cuộc đời trong mắt nhìn của thầy Võ Trường Toản, cũng như bao người khác, vốn là “bóng câu qua cửa sổ” thoáng chốc thì đã hết, không còn để lại gì ngoài hư vô.
Vạn vật dẫu có lúc rực rỡ, cường thịnh, và thời gian tưởng như dài, nhưng đó cũng chỉ là khoảnh khắc “huy hoàng” trong chuỗi dài “suy kiệt”.
Ý tưởng có phần bi quan, nhưng đó là thực tế cuộc đời, nó có tác dụng định hướng, nhắc nhớ con người nên biết điều chỉnh hành vi sống của mình theo hướng tích cực hơn.
Biện nguyên của bài phú được mở rộng trong cái nhìn có tính chất hệ thống nhằm làm rõ ý tưởng của câu lung. Đó là: thương hải biến vi tang điền; tang điền biến vi thương hải
nhưng được diễn đạt một cách gần gũi với người bình dân hơn:
2. Cho hay vực thẳm nên cồn; khá biết gò cao hóa bể
Đó còn là: sự “luân chuyển của con tạo” với bánh xe thời gian mà con người nào biết được ra sao:
Đó là cõi mộng “phù du” – “đường say đường tỉnh”, mà con người đang ngụp lặn để tranh phần được mất: “thoạt đặng thoạt thua”.
Thích thực chính là phần khái quát chủ đề của toàn bài sau biện nguyên, nên cũng mang ý tưởng khái quát như một lần nhắc lại lung:
Lênh đênh bóng nguyệt dòng sông.
5. Đường Ngu ấp tổn (1) rượu ba chung, dường say dường tỉnh;
Thang Võ chinh tru (2) cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.
(2) chinh tru: đánh giết.
Toàn phần “mở đầu” này như nhấn mạnh một chân lý cuộc đời mà thầy Võ Trường Toản muốn nhắn nhủ mọi người, nói một cách ngắn gọn: “đời phù du”. Để diễn đạt ý tưởng này, thầy Võ Trường Toản đã dùng khá nhiều hình ảnh, điển cố để làm cho điều mình diễn đạt có được sức mạnh thông tin nhờ nào hình tượng, hình ảnh và giá trị biểu cảm theo đó mà cũng được nâng lên rất nhiều.
Phần hai gồm có phu diễn, nghị luận: với chức năng là chứng minh, bình luận. Đây là phần chính của một bài phú. Tất nhiên, hai phần việc của nội dung, tuy có khác, nhưng đều có tác dụng hỗ trợ nhau, được nhà thơ vận dụng một cách linh hoạt, không cứng nhắc trước sau.
Phu diễn gồm 7 câu (các câu từ câu 7 tới hết câu 13), thầy Võ Trường Toản đã khéo chọn một số thực tiễn cuộc sống sinh động để chứng minh cho chân lý cuộc đời, rốt cuộc cũng chỉ là mộng ảo.
Từ cảnh chết đói ở núi Thú, đến việc tìm trường sinh ở non Thương, trẻ, già cũng không còn lưu dấu:
Từ chuyện “mộng ác” của “cánh bướm” Trang Chu đến việc “tiếc xót” của “chim quyên” Thục Đế, rồi cũng tàn lụn theo thời gian:
Từ những nắm đất vàng “hoàng nhưỡng” nơi nghĩa địa đến các đám mây trắng “bạch vân” nơi thiên đế, đâu cũng là tiệt diệt:
(5) hoàng nhưỡng: nắm đất vàng nơi nghĩa địa.
(6) Trang Tử “Thừa bỉ bạch vân chí vu đé hương”: cưỡi đám mây trắng kia mà đến nơi thiên đế ngự. Ý nói người chết.
Từ chuyện được mất đến chuyện thị phi âu cũng trôi theo năm tháng:
(7) Hoài Nam Tử: “Tái ông thất mã”.
Từ chuyện thỏa mãn hạnh phúc, khát vọng của Hán Võ, Thạch Sùng, bị khỏa lấp, tan biến trong sương gió:
(8) Thạch Sùng đời Tấn xây vườn Kim ốc để vui chơi.
Từ những hoạt động chốn dương gian: những cuộc truy hoan, những lần mộng tưởng, những phút biệt ly…, nào giữ được lâu:
Từ khí phách anh hùng của nhà Hán đến sự bá chủ giang sơn của nhà Đường, rốt cuộc rồi cũng diệt vong, tan biến theo quy luật thịnh suy của trời đất:
Sự chứng minh từ nhiều biến cố lịch sử, qua các thời kỳ, ở nhiều triều đại, với nhiều đối tượng như vậy là quá thuyết phục cho nhận định của Võ Trường Toản rồi.
Đoạn phu diễn có chất giọng gãy gọn, dẫn liệu chính xác, đủ cho ta thấy sự học uyên bác, tầm hiểu biết rộng rãi, cao siêu của một kẻ sĩ nổi danh không chỉ một thời mà qua nhiều đời này ở đất Gia Định.
Nghị luận gồm 10 câu (gồm các câu từ câu 14 đến hết câu 23), cho thấy khả năng hùng biện của Võ Trường Toản trên phương diện một người thầy của “Gia Định tam gia”. Sự lập luận của ông xuất phát từ nhiều góc độ:
Thương lâu đài, thành quách của Tấn, Tần, theo thời gian biến thành hoang phế:
Tiếc “cung Tùy, đài Ngô” một thời hoang lạc, sung túc, bây giờ có còn đâu? Tất cả chỉ còn phảng phất một mối sầu thiên cổ:
“đêm Ô Giang”, “ngày Cai Hạ” chỉ còn gợi nhớ một thời của “Hạng Võ”, “Ngu Cơ”:
“đời vắng Nghiêm Lăng”, “thuyền không Phạm Lãi” thiên nhiên như chỉ còn mịt mờ một màu sương tuyết:
Từ những nghị luận riêng lẻ ấy cho thấy sự trải đời ở ông. Để rồi từ những chiêm nghiệm ấy, thầy Võ Trường Toản lại đưa ra một kết luận hết sức sắc bén; đồng thời, ông cũng khẳng định cho điều trường tồn bất diệt của cuộc đời, ấy là “nhân nghĩa”:
18. Cho hay dời đổi ấy lẽ thường; Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.
Nghị luận cơ bản ấy được thầy Võ Trường Toản tiếp tục chứng minh, biện luận bằng những gương sáng về đạo “nhân nghĩa” đã được lưu danh trong hậu thế như:
“Đại Thuấn”, “Tử Khiên” quên thân mình quyết giữ tròn đạo hiếu nghĩa:
“Tôn khóc măng”, “Tường nằm giá” quyết giữ đạo con, “Tích dấu quít”, “Cự chôn con” mong đền nghĩa mẹ; gương trung liệt “trước đèn Trụ”, “dưới thành Ngô” như vẫn còn mãi cùng năm tháng:
Những bậc tôi hiền như Hàn Dũ, Tô Vũ vẫn đọng trong lòng dân một niềm thương cảm; “cật Võ Mục”, “áo Thiên Tường” biểu thị tấm lòng trung nghĩa được người đời sau nhắc mãi.
(9) Hàn Dũ viết biểu can vua bị Đường Hiến Tông đày đi biên ải.
(10) Tô Vũ đi sứ chịu khổ ở Hồ nhiều năm.
Trong cả hai tiểu đoạn nghị luận, thầy Võ Trường Toản đã lựa chọn cẩn thận đến từng điển tích, điển cố, kết hợp với những lời bình ngắn gọn, súc tích, vừa nêu được nét khái quát, vừa khắc họa đến từng chi tiết những gương xưa để nhằm luận bàn đến “lẽ còn mất” trong cuộc đời dưới cái nhìn nhân nghĩa của nhà thơ.
Kết của bài phú được cô đọng ở câu 24:
Với câu kết này ông muốn khẳng định một điều: “vạn vật dẫu có thế nào thì “danh tiết” vẫn là cái để lưu danh muôn thở”.
Bài phú có tựa đề “Hoài cổ” của thầy Võ Trường Toản không có nghĩa là nuối tiếc cái xưa; sống ở hiện tại mà nhớ về quá khứ đâu đâu. Ở đây, ông muốn từ “ôn chuyện cũ” để giáo huấn người đời về “lòng nhân nghĩa”. Trong sự thăng trầm, biến đổi của xã hội, chỉ có lòng nhân nghĩa mới là cái trường tồn đích thực. Bởi vậy, con người phải quyết tâm gìn giữ.
Từ tư cách, đức độ ấy, đích thân Vua Gia Long Nguyễn Ánh bạn tặng cho Võ Trường Toản danh hiệu “Gia Định sùng đức xử sĩ Võ Tiên sinh” quả là không ngoa chút nào.
Thầy xưa thầy nay: Từ hình tượng Võ Trường Toản tới con đường của những người gieo mầm
Thơ vui: Nhìn thầy xưa mà ngẫm thầy nay
Xưa thầy dạy làm người
Nay thầy dạy làm giàuXưa thầy âm thầm lặng lẽ
Nay thầy bán hàng livestreamXưa thầy thích ở ẩn
Nay thầy xăm kín ngườiXưa trò học nữa chữ cũng tôn kính gọi thầy
Nay người học nửa cũng lên mạng xưng thầy
Ngày nay, giữa một thế giới tràn ngập thông tin, học sinh có thể biết tên của hàng trăm KOL, KOC, ca sĩ, rapper, diễn viên,.. nhưng liệu các bạn còn nhớ đến những người thầy thầm lặng?

Võ Trường Toản không chạy theo thành tích, không cần “drama”, nhưng vẫn “viral” tới hàng trăm năm. Điều ông làm chỉ là âm thầm gieo mầm, nuôi dưỡng và truyền cảm hứng bằng trí tuệ.
Câu chuyện về Võ Trường Toản, dù diễn ra trong quá khứ nhưng không xa xôi, vẫn vang vọng những thông điệp vượt thời gian. Trong thời đại của chúng ta, khi mọi người mải miết tìm kiếm thành công bên ngoài, ông nhắc nhở chúng ta rằng kho báu lớn nhất nằm ở bên trong, ở sự thanh thản khi theo đuổi lẽ phải, ở niềm vui khi gieo những hạt mầm tri thức.
Đối với Võ Trường Toản, một người học trò không chỉ cần thông tuệ mà còn phải có cốt cách, có khí phách, dám đứng lên bảo vệ lẽ phải và cống hiến cho đất nước.
Võ Trường Toản là minh chứng cho thấy, đôi khi, con đường vĩ đại nhất không phải là con đường của quyền lực hay danh vọng, mà là con đường của sự cống hiến thầm lặng, của việc thắp lên những ngọn đuốc trí tuệ, để soi đường cho biết bao thế hệ tiếp nối. Đó là con đường của những người gieo mầm, những người tin rằng, chỉ cần một hạt giống nhỏ được gieo đúng chỗ, nó có thể thay đổi cả một thế giới.
Bài viết nằm trong danh mục Idol Việt xưa – Nơi vinh danh những Idol đất Việt đã làm rạng danh và kiến tạo nên một dải đất hình chữ S tươi đẹp ngày nay










